Trong entry trước tôi có nói về banlance sheet của NHNN cũng như nghiệp vụ OMO, Tái cấp vốn mà thể hiện qua Outstanding loans (bằng tổng các khoản nợ NHNN bằng nghiệp vụ Repo và Tái cấp vốn ghi bên Nợ của Banlance sheet các toàn hệ thống NH). Một bạn đã email hỏi tôi về B/S của …SBV. Tôi trả lời luôn, là khó hơn mò kim đáy bể! Đến bây giờ vẫn chưa thể biết mặt mũi nó thế nào. Thôi vậy, đành tìm cái B/S và P/L của…Fed vậy!
Balance sheet: Cấu trúc B/S của NHTW nó như thế này.
Ở đây ta thấy B/S của Fed phình rất nhanh do nghiệp vụ in tiền (quan trọng và là độc quyền của NHTW) để cứu nền kinh tế không lún sâu cũng như khôi phục sau khủng hoảng. NHTW càng bơm tiền ra nền kinh tế (CS mở rộng) B/S càng to ra và thông qua nghiệp vụ in tiền. Tiền ở đây có thể là tiền tươi thóc thật, nhưng chủ yếu là tiền được ghi nhận ở tài khoản NHTM gửi tại NHTW.
Nhìn vào B/S ta thấy các assets của NHTW được finance từ cột liabilities, nhưng cột nợ này từ đâu ra? Assets của NHTW tăng lên do nghiệp vụ cho vay NHTM (như OMO, Tái cấp vốn, chiết khấu, Swap, cho vay qua đêm thanh toán điện tử liên NH, thấu chi, ở Fed còn có thêm một số công cụ khác như mua các MBS, toxic asset, term auction credit, cũng như mua cả những coporate bond của chính các NHTM), mua TPCP làm tăng Asset.
Tiền đâu để mua kỳ hạn trên OMO (Repo), tái cấp vốn, chiết khấu (thể hiện qua OMO, Refinancing, discount outstanding loans nằm trong dòng 7, nghiệp vụ POMO outstanding nằm trong dòng 1 và 2), đặc biệt là những lúc thanh khoản căng thẳng hoặc thực hiện CSTT mở rộng hoặc mua ngoại tệ (như mua USD của SBV)? Tiền có sẵn từ cash account, thiếu thì sử dụng ở các khoản nhận tiền gửi của BTC, bán TPCP hoặc repo Trái phiếu CP/Tín phiếu NHTW, thiếu nữa thì in, in ở đây vô cùng đơn giản (nếu được thông qua) là NHTW chỉ việc ghi Có vào tài khoản tiền gửi của NHTM tại NHTW (ở VN là gửi tại Sở GD NHNN) thông qua nghiệp các nghiệp vụ trên (chủ yếu là OMO, Fed thì vừa rồi là mua tài sản), tức là TK tiền gửi Deposits tăng lên (cột Nợ của CB), đồng thời, lúc này bên Có (Assets) sẽ tăng lên một khoản tương ứng (bằng cách tăng Loans, Treasury…), cứ thế, nếu thiếu thì phải in và tín dụng, cung tiền ra nền kinh tế lớn lên theo số nhân tiền tệ (MM) (ngoài ra, có thể vay nước ngoài thông qua một swap line với một số đồng tiền dự trữ được) Khi các hợp đồng mua kỳ hạn đáo hạn, TS và Nợ đều giảm xuống một khoản tương ứng. Nếu mua kỳ hạn (ngắn) thì NHTW không gặp nhiều rủi ro về biến động giá trị tài sản, nhưng nếu mua hẵn (outright) thì sẽ có (như Fed), bởi, ví dụ, sau khi mở rộng bơm tiền bằng việc mua một khối lượng lớn các GTCG (outright), đến khi áp lực lạm phát tăng lên, và CSTT thắt chặt thực thi, LS tăng lên, giá (price) của khối tài sản này giảm xuống, lỗ! Việc càng in tiền thì quy mô bảng B/S càng lớn lên, chính điều này sẽ gây áp lực lạm phát lên trong tương lai (như Fed hiện tại)
Ngoài ra, ta thấy mục rất quan trọng và lớn là Bank deposits (bao gồm cả DTBB và tiền gửi vượt DTBB, ở VN, là tiền NHTM duy trì ở account tại SGD và NHNN Tỉnh). Mặc dù trên nguyên tắc, quỹ DTBB như là một quỹ bảo hiểm chung mà các NHTM góp, SBV có trả Lãi suất/thấp, thì sử dụng nó sẽ khó khăn hoặc không được sử dụng nó, nhưng, trong trường hợp đặc biệt, quỹ này có thể sẽ được sử dụng – quỹ thanh khoản thì sẽ hỗ trợ thanh khoản cho bộ phận NHTM khó khăn.
Cuối cùng, một NHTW phải có vốn tự có, được cấp, như SBV vừa rồi được tăng vốn lên 10 nghìn tỷ để đáp ứng các nhu cầu hoạt động và ổn định tài chính, vốn càng lớn, tất nhiên khả năng ứng phó trước những tình hình bất ổn càng cao. Nguồn vốn này cũng được tích lũy thông qua lợi nhuận được giữ lại. Nhắc đến Vốn CSH và nợ, thì liên tưởng đến Leverage! (mức leverage của Fed còn cao hơn của….Bear Sterns lúc phá sản!)
Liquidity Trap? Phần nào có thể hình dung điều này từ sự tăng lên của account bank deposits (dòng 10) và dòng 1 và 2. (Tiền được NHTW bơm cho hệ thống lại được gửi ngược trở lại vào NHTW mạnh chứ “chưa chịu” ra thị trường để thúc đẩy đầu tư, tiêu dùng thông qua credit! Chú ý, có những thời điểm, banks deposit account tăng với một lượng lớn hơn số tiền mà Fed in ra! Vậy tiền đó đến từ đâu? Đó là các khoản tiền gửi offshore từ bên ngoài vào Fed – đơn giản, lúc khủng hoảng, có lẽ Fed là an toàn nhất!)
Cũng chính việc quản lý tài sản có – tài sản nợ như trên bằng công cụ điều tiết mức độ cost and availability of funds (tức lãi suất và khối lượng cung ứng) khác nhau sẽ tạo ra được thu nhập cho chính NHTW. Năm vừa rồi, Fed lời to. Không biết NHNN VN thế nào!
Profit & Loss, Bảng P/L như thế này:
Lợi nhuận được tạo ra từ các khoản trả lãi và thu lãi như một NHTM khi thực hiện nhận tiền gửi và cho vay (với các định chế TC, BTC,…) cũng như các khoản đầu tư (TPCP, các TS khác như MBS, Cổ phần – giải cứu các công ty, NH bằng cách bơm tiền mua lại CP, Swap,…)
Năm vừ rồi Fed lời to (xem thêm ở đây), tuy nhiên rủi ro là rất lớn. Vấn đề ở chỗ, khối lượng Ts khổng lồ của Fed sẽ giảm giá mạnh khi Ls tăng lên. Đặc biệt là khối lượng bonds. Theo đánh giá, khối lượng tài sản Fed đang nắm giữ có kỳ đáo hạn bình quân là trên 6 năm với (maturity distribution). Với một duration như vậy, nhạy cảm với lãi suất rất lớn, tức là nếu lãi suất tăng lên 100bps, price của Ts sẽ giảm đi khoảng 6% (giả sử duration tương đương với modified duration vì lãi suất chiết khấu 1 năm đang rất thấp), với leverage của Fed rất cao 53x, thì chỉ cần 1/3 con số Ls tăng lên trên (khoảng 33bps) sẽ hết vốn!
Taxpayer Subsidy, đây là một mục đặc biệt (tự tính) để đánh giá những hoạt động của NHTW, có sự tham gia tài trợ từ người nộp thuế trong việc ổn định thị trường tài chính, ngân hàng (như khủng hoảng)
Ở bảng trên, ta thấy có mục đặc biệt là Taxpayer Subsidy, tức là mục chiếm dụng tiền của người nộp thuế trong việc thực thi các CSTT của mình. BTC phải trả lãi cho khoản nợ (TPCP) cũng chính là người nộp thuế phải trả, thu nhập của NHTW mang về sẽ cấn trừ một phần vào khoản này, nếu NHTW có lãi càng lớn thì người nộp thuế càng có lợi (như năm 2010 ở bảng ở trên).
Nhìn sang Việt Nam, trước đây, trong một thời gian dài, NHNN đã thực hiện CSTT với một LS Chính sách (Tái cấp vốn, chiết khấu, OMO) thấp hơn rất nhiều so với lợi suất TPCP (mà BTC/người nộp thuế) phải trả, mức thấp hơn này cũng vào khoảng 3 – 4% (như có thời điểm LS OMO chỉ 7%, Lợi suất TPCP vào khoảng 11 – 12%/năm) Điều này phần nào mang lại lợi ích lớn cho hệ thống NHTM (tương đương hỗ trợ một phần lãi suất quá lớn, hay cũng có thể nói là cho không NHTM, NHTM mua TPCP sẽ được hưỡng lợi từ vay tiền NHNN, cũng từ đó, việc phát hành TPCP của BTC thành công hơn – và đây chính là một trigger point của lạm phát: monetizing debt! Và rõ ràng, nếu hiện tại trên B/S của SBV, SBV nắm càng nhiều bonds thì …in tiền càng lớn). Nhìn trên bảng P/L của NHNN, sẽ thấy được thu nhập của NHNN sẽ mất đi một phần bằng khoản chênh lệch Ls này, mất đi, đó là mất đi lợi ích của người nộp thuế (bởi lợi nhuận nếu có của NHNN thuộc NSNN). Có nghĩa là, đã chuyển tiền từ thuế của người dân vào túi NHTM?
Như vậy, có thể tính rằng, chi phí thực tế của người dân phải gánh chịu là lớn hơn rất nhiều bằng việc kích thích người mua TPCP (NHTM) thông qua thêm một cơ chế từ SBV? (Tức là trả cho NHTM thêm một khoản lợi tức nữa). Điều này cũng có nghĩa là âm thầm cố gắng thực hiện những vấn đề mà người dân không chấp nhận (rủi ro, lợi nhuận đầu tư, đặc biệt là đầu tư công). Chính vì thế, nói rằng, NHTM (ai được lợi từ chênh lệch lãi suất ở trên) là một trong những nguyên nhân gây nên lạm phát cũng không sai, và cũng là đẩy LS nền kinh tế lên cao? Còn nếu nói về việc, lợi suất TPCP như một Benchmark rate thì ảnh hưởng càng lớn hơn đến giá các assets khác trong nền kinh tế, trong quyết định đầu tư (discount rate cao hơn) và như vậy, thời gian trước, mức rủi ro của VN không thấp như nó vốn có.
Bò con said:
Anh Nghĩa đang công tác ở đâu? Em thấy những gì anh biết hình như không có giáo trình hay môn học nào trong nước dạy, chỉ là đề cập sơ qua. hic. Bái sờ phục
dai said:
e ko thấy trong các nghiệp vụ của SBV có nghiệp vụ mua bán outright TPCP :D.
khác FED, SBV ko tài trợ lạm phát?
Nghiatq said:
@Đại: Repo linh hoạt hơn bởi cung tiền cung ra tồn tại có thời hạn ngắn và điều tiết được nhanh. Mặt khác, đây cũng là tính cấu trúc tài chính của VN, TT bond chưa phát triển, SBV cũng không nhiêu bonds (hạn chế trong việc thực thi các CSTT), vã lại, SBV cũng chưa thực hiện nghiệp vụ bán kỳ hạn với NHTM lần nào! Outright thì SBV nắm giữ bond, nhưng tiền cung ra sẽ không thu về theo kỳ hạn (có thể điều chỉnh) như Repo, áp lực và tác động lớn hơn nhiều. Còn về có “tài trợ” lạm phát không thì cũng đâu cần phải thêm nghiệp vụ này!
Tôi nghĩ là nên có, bởi nó sẽ tạo ra cơ chế thông thoáng cho việc thực hiện các chính sách tiền tệ, đồng thời, tạo nên một yield curve với định hướng chính sách và kỳ vọng nhất quán, hỗ trợ rất tốt cho các chính sách lãi suất (cả định hướng shortterm và longterm). Có lẽ hiện tại, ngay cả repo, cũng chưa thể hiện được một số mục tiêu, đặc biệt là yield curve, không có view về interest rate ngắn và dài hạn (tương ứng với rủi ro) khi các GTCG trên OMO (repo) đều có thời gian đáo hạn (TTM) là khá lớn, lớn hơn rất nhiều so với kỳ hạn 1 tuần mua bán, do đó, không tạo được spread về lãi suất rõ ràng. (Thế này nhé, nếu a dùng bond có kỳ hạn quá dài hơn kỳ hạn bán kỳ hạn, rõ ràng, a đang chịu rủi ro về lãi suất trong khung thời gian này!)
dai said:
Em thì nghĩ ko nên có nghiệp vụ outright vì VN ko có NHTW độc lập như FED. Sẽ tạo ra sự thiểu kỷ luật tài chính công, bùng nổ lạm phát.
Có 1 vấn đề em thấy rất thú vị. Cung tiền tăng mạnh mấy năm nay có nguồn gốc từ đâu, trong khi dự trữ ngoại hối giảm và ko thực hiện chiết khấu TPCP. OMO chỉ cung cấp thanh khoản, về cơ bản NHTM ko sử dụng nguồn này để cho vay TT1 (tuy phần nào có thể đảm bảo thanh khoản mà có LDR cao hơn) ko thể tăng mạnh đc M2 (ko tạo số nhân tiền). Em cho là nếu ko có outright thì ko có cách nào để tài trợ lạm phất được.
Nghiatq said:
@Đại: haha, thế em nghĩ từ đâu? Quá trình phát triển kinh tế tích lũy chứ không một ngày (túi em cũng nhiều tiền lên là do đâu?) Quy mô NHTM to ra là do đâu? Nợ của BTC to ra là do đâu?,…riêng về số nhân, em không thể bắt nó tăng lên hàng năm được (bởi vậy thì …tiêu) mà là cơ sở tiền của nền kinh tế giàu lên. Cộng với in tiền, vay tiền (trong dân, bên ngoài)
Điều anh không rõ là cái Banlance sheet của SBV thế nào rồi 🙂
dai said:
Về đường cong ls: thì em giả thiết là do vấn đề lạm phát/vĩ mô VN quá unpredictable khiến cho TPCP trở thành 1 kênh đầu tư có rủi ro (về yield, ko phải default) quá lớn.Chính rủi ro này ảnh hưởng đến việc xác định giá cho các kỳ hạn dài. Các NH ko đầu tư TPCP theo đúng nghĩa, mà chỉ coi như 1 phương tiện để hoạt động trên OMO, nên ls TPCP các kỳ hạn thông thường sẽ xoay quan ls TCK của OMO. ko hiểu bloomberg, reuter dựa vào source/method nào để xác định yield của TPCP VN các kỳ hạn trên 5 năm.
Việc mua /bán outright đúng là sẽ tạo ra yield curve ngay lập tức. Tuy nhiên, nguy cơ lạm phát có lẽ sẽ overwhelming.
Nghiatq said:
Đúng vậy, bond market ở VN quá bé (vs GDP, credit) và thiếu các công cụ giao dịch nữa, thiếu phân loại kỳ hạn và loại bond thống nhất (tức quá nhiều loại, trong khi, một lúc chỉ deal có 1 loại rồi dùng 1 loại có vài trăm tỷ ấy đại diện cho một kỳ hạn trên market sao?). Vấn đề lạm phát/vĩ mô về cơ bản không tác động lớn, bởi đường công sẽ điều chỉnh theo điều này.
Về yield curve, họ (BB, RT) dựa vào thực tế từ một panel các NHTM, CTK, Quỹ,.. hàng ngày báo về, rồi loại bỏ outlier và tính bình quân. Tất nhiên, những kỳ hạn dài thì không active, nên yield chưa phản ánh, có lẽ các panel cung cấp này sẽ dùng số liệu kỳ vọng để cung cấp chăng? Về đường Benchmark chuẩn, là do phần mềm tính toán và fill dựa trên lập trình nào đó, ví dụ một số phương pháp (Svensson, Cubic spine line interpolation,…)
dai said:
Nếu ko mua bán outright mà chỉ repo, em đồng ý là sẽ có 1 lượng tương tự MB ra thị trường. Tuy nhiên, do tiền qua OMO ko trả qua quá trình tạo tiền nên M2 sẽ ko tăng mạnh. không hiểu tiền ở đâu ra mà cung tiền tăng vù vù hàng năm, trong khi 1 lượng tiền lớn được rút ve do thâm hụt dự trữ ngoại hối.
Bond market/GDP, M2 nhỏ sẽ làm khó khăn việc điều hành tiền tệ của NHNN. Tuy nhiên xét dưới góc độ quy mô hàng hóa để giao dịch thì là đủ, tại sao lại có rất ít khối lượng giao dịch trên thị trường thứ cấp?
Việc TPCP ko phát hành theo lô lơn là khó khăn về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề là kể cả có TPCP theo lô lớn thì với khối lượng giao dịch ít khi vượt quá 20k tỷ/tháng thì cũng ko hình thành được yield curve.
Để hình thành yield curve theo e: 1. Tăng số lượng thành viên tham gia thị trường. 2. Tăng khối lượng giao dịch. TPCP nếu tách khỏi OMO, sẽ là 1 kênh đầu tư rủi ro lớn khiến ít nhà đầu tư tham gia.
Đ. Hải said:
Em thấy nhiều khi giao dịch trên thứ cấp xuất hiện nhiều deal TPCP kỳ hạn 3-5 năm mà lãi suất có 8,5% trong bối cảnh lãi suất thị trường đang căng. Có thời kỳ vài tuần chỉ có 1 vài giao dịch như vậy mà YC của RT vẫn bình thường, chả thay đổi gì.
Các giao dịch bất thường kiểu này đc xem là repo giữa các NHTM để balance với các giao dịch LNH vượt trần 13,5%, nhưng số liệu tại HNX thì chỉ hiện là outright. Nói chung là bó tay với số liệu của VN về bond market.
thienduongladay said:
Anh Nghĩa đánh giá sao về vụ 14/16 ngân hàng xóa nợ cho Vinashine
tran nam said:
Ko hiểu dư chấn vụ xóa nợ này thế nào. NH Nông nghiệp cho Vinashin vay 17k tỷ, nợ xấu TTâm 2 (tách Vinashin rồi) khoảng 5-7k tỷ, TTâm 1 cũng khoảng 3-5k tỷ, CKhoán NN bị 3k tỷ. Sơ sơ như vậy Nông nghiệp nợ xấu cũng gần hết vốn điều lệ rồi. Sau này làm ăn kiểu gì gỡ lại đây?
dai said:
Nợ xấu chứ có phải là mất vốn đâu bác. Bác Nam chắc trong nội bộ, nắm sỗ kỹ thế. ah, còn ALC1,2 nữa
Đ. Hải said:
Em cũng không hiểu dư luận người dân với cách giải quyết này của NHNN ra sao? Nguồn tiền để xóa nợ từ đâu ra hay SBV tự in để xóa nợ. E là dư luận sẽ phản đối gay gắt trong bối cảnh trang chấp biển đông đang căng thì ảnh hưởng không tốt tí nào.
Hiện tại em chỉ thấy SBV yêu cầu các NHTM báo cáo tình hình nợ Vinashine thôi, chứ chưa thấy chủ trương xóa nợ.
trannam said:
@dai: nói là nợ xấu cho vui, chứ bây giờ xóa nợ thì mất chứ làm gì còn. Những thứ khác cũng ko có hy vọng lấy lại được đâu. Một số NH cho TTâm 2 (ALC 2) vay để cho thuê tài chính bây giờ cũng ko có cơ hội lấy lại tiền rồi. Chưa thấy chú NH nào ho he, toàn giấu biệt đi. Vì thế giai đoạn này cái em thấy e ngại nhất là nợ xấu. Rõ ràng là xấu, nhưng đến đâu thì ko ai biết rõ. Chỉ sợ đến lúc bục ra gây đổ vỡ diện rộng thì hậu quả khó lường.
Bò con said:
Mặc dù biết liên quan đến vinashin (liên quan đến nhà nước) thì có thể làm khác đi chút, nhưng luật thì phải làm theo luật, nguồn tiền xóa nợ ban đầu lấy từ dự phòng cụ thể ra, không đủ thì sử dụng đến dự phòng chung….
Có ai kiểm toán Agribank đâu, nên nếu nợ nhiều thì….”NHNN có văn bản chấp thuận về việc tăng vốn điều lệ của NHTM Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam” và “khuyến mãi gửi tiền Agribank, nhân tay rinh quà”, còn sử dụng tiền làm gì thì chẳng biết được, giật nợ đó các chú làm gì được anh
thienduongladay said:
Tiền đồng thì xóa lúc nào chả được. Về cơ bản tiền đồng chúng ta in được. Cơ chế xóa nợ giờ phức tạp hơn thôi. Ngày xưa sông đà cũng xóa một đống. Hơn nữa FTP nếu ko xóa thì sao có ngày hôm nay.
Nghiatq said:
Hệ thống NHTM Trung Quốc cũng có thời mất phương hướng và ngập chìm trong nợ xấu. Giải pháp của họ là Tăng vốn và phát mạnh triển hệ thống công ty AMC.
Đ. Hải said:
Hiệp hội NH vừa gửi một công văn cho NHNN bầy tỏ lo ngại về căng thẳng thanh khoản ngoại tệ đang ngày càng tăng và đề xuất NHNN hỗ trợ bằng cách Nới trạng thái ngoại hối tạm thời cho các NHTM (không phải để đầu cơ mà để đảm bảo thanh khoản. Bác Nghĩa có đánh giá gì về giải pháp này không?
Hỗ trợ thanh khoản VND thì NHNN có nhiều chiêu, nhưng thanh khoản USD thì ngoài bơm tiền, hoán đổi ra thì theo bác NHNN còn chiêu gì nữa không?
(Huy động USD và cho vay tính đến 20/6 chênh nhau khoảng 3,5 tỷ USD, nếu có hạ DTBB USD như vừa qua thì cũng chỉ bơm ra khoảng 700 tr USD, số liệu em tính ngoại suy, không chịu t/nh về tính chuẩn xác)
Tks bác.
Nghiatq said:
@ A. Hải: Tôi nghĩ đó không phải là giải pháp! Thanh khoản bắt nguồn từ đâu? (Thanh khoản ở đây bao gồm thiếu USD để trả nợ (mà khó được tài trợ bằng vay hoặc mua) trong một thời gian nhất định)
Nâng tỷ lệ trạng thái ngoại tệ không thể hiện được gì, bởi không tăng được cái bản chất “giàu có và dư thừa” USD của NHTM. Nếu có, chỉ là biện pháp chữa cháy tạm thời tại một thời điểm thiếu USD thanh toán, buộc phải mua nhiều USD lên (tăng tỷ lệ trạng thái). Còn hiện tượng vay/cho vay trên LNH không làm thay đổi trạng thái (cũng như cho vay lại khách hàng). Mua từ SBV để bán lại (cho DN) cũng không làm thay đổi TTNT.
Bình thường, mở trạng thái chỉ để cho linh hoạt trong một số hoạt động mua/bán, trading, chứ NHTM nào mà “trữ” USD bằng cách mua nhiều vào để full cái trạng thái ngoại tệ kia! Mở trạng thái lớn hơn có nghĩa là NHTM sẽ có khả năng mua bán dựa trên một cơ sở USD lớn hơn, rủi ro lại càng lớn hơn! Kể cả đầu cơ!
So với nâng trạng thái, thì việc kiểm soát gắt gao các tỷ lệ thanh khoản USD theo một số quy định hiện tại, kiểm soát dựa trên thống kê trực tiếp từ các NHTM dòng tiền (trả và nguồn trả) trong một thời gian sắp tới sẽ tốt hơn.
Theo tôi được biết thì SBV đang theo dõi gắt dòng tiền USD (theo phương pháp thống kê báo cáo từ các NHTM về việc dòng tiền trả nợ – nguồn trả nợ của các khoản vay). Nếu lo ngại một thời gian nào đó sắp tới bị thiếu mạnh, thì SBV nên kiểm soát nguồn cung sẵn sàng của NHTM (đặc biệt là mấy NHTM đã sử dụng nguồn USD quá cao và quá chênh lệch so với nguồn vào – mismatch, cũng như trạng thái ngoại tệ âm khi bán USD để cho vay VND!) và đồng thời chuẩn bị biện pháp intervention từ nguồn dự trữ chuẩn bị của mình.
Về can thiệp thị trường USD, hiện tại chỉ có bán và hoán đổi. Không có cho vay.
dai said:
Nới trạng thái NH sao cải thiện được thanh khoản USD?
Cho vay>huy động thì NH đâu chịu sức ép thanh khoản.
Bò con said:
@Dai: Không hiểu ý Đại “Cho vay > Huy động thì NH đâu chịu sức ép thanh khoản” –> Phải chịu chứ, cho vay > huy động mà
Định nghĩa thanh khoản:
Thanh khoản = Thiếu tiền cho mục đích nào đó = Thiếu tiền trả nợ + thiếu tiền cho vay (theo cam kết) + thiếu tiền cho dự trữ bắt buộc + thiếu tiền cho các chỉ tiêu kiểm soát rủi ro….
dai said:
@ bò con: mình hiểu thì khi TSC>TSN (TTNH dương) sức ép thanh khoản sẽ nhỏ hơn là khi TSN>TSC (TTNH âm). Dĩ nhiên còn gap kỳ hạn nữa.
Trường hợp Cho vay>Huy đông đang diễn ra thì sức ép thanh khoan USD thuộc về phía các DN đã vay USD, ko nằm phía ngân hàng.
best
Đ. Hải said:
Thanks a Nghĩa, Em cũng thấy biện pháp này chỉ giúp các NH thuận tiện hơn khi đầu cơ USD về cuối năm thôi (thấy ông nào cũng dự báo tỷ giá sẽ tăng). Và lại tự các NHTM đẩy mạnh cho vay USD gây ra căng thanh khoản cho chính mình, giờ khó lại kêu NHNN hỗ trợ thì quá vô lý.
@ Đại, câu thứ 2 của bạn tui k hiểu lắm, cho vay > huy động thì phải rủi ro thanh khoản chứ nhẩy? mà LS huy động USD trên TT1 thực tế cũng tầm 4-4,5% rồi, LNH thì tăng cả tuần nay cũng cho thấy thanh khoản USD có vấn đề mà bạn.
Đ. Hải said:
@ Đại, đúng ra là DN chịu rủi ro đó, nhưng trên thực tế để có thể đẩy mạnh cho vay, chính các NH cho vay lại cam kết sẽ bán ngoại tệ cho DN, trong khi bản thân mình chưa hề dự phòng gì (cách đây 3 tháng nguồn USD xông xênh, vay trên LNH dễ và lãi suất thấp, các NH tự tin ký lắm)
Do đó, rủi ro đó giờ chính NH phải chịu.
Ngoài ra, tỷ lệ thanh khoản USD với từng kỳ hạn (gap thanh khoản gì gì đó) các NHTM phải kiểm soát hàng ngày để báo cáo NHNN mà bác.
dai said:
@Hải: Vấn đề NH có cam kết bán NT hay ko lại là 1 vấn đề khác, ko liên quan đến việc 3.5 tỷ $ cho vay>Huy động.
Căng thẳng thanh khoản ngoại tệ hay là nguồn vốn USD giá rẻ đã hết?
Hoàng Trọng Phú said:
@Dai: CHo vay, huy dong dau tinh vao trang thai ngoai hoi, vi don gian no khong lam thay doi trang thai ngoai te cua ngan hang, tru khi mua ban, forward, roi lending thoi
dai said:
@ PHú: Đúng là như vậy. Tuy nhiên có nhiều cách tiếp cận. Bản thân hoạt động cho vay ko làm thay đổi TTNH, tuy nhiên để cho vay>huy động, tức là NH phải mua ngoại tệ để cho vay, làm cho TTNH dương. Nếu bỏ qua phần cam kết bán như bạn Hải nói bên trên, thì toàn bộ số chênh này sẽ ảnh hưởng đến TTNH.