Tags
Đọc bài này, hình như tác giả chưa rõ việc Kinh doanh/đầu tư bonds của NHTM nó như thế nào. Hỏi ngược lại một chút: Thế thì không nên/không mua TPCP? Sao lại so sánh LS huy động với Lợi suất TPCP? Mua TPCP sẽ lỗ? Thế nào là trading book và investing book? Giá vốn bình quân finance cho invest in bonds nó như thế nào? Cứ phải huy động 3 năm thì phải mua cái TPCP 3 năm hoặc ngược lại? Tác giả có biết không? Vậy thì đừng có mà đổ “oan” cho NHTM là biết lỗ vẫn mua! Hay tác giả muốn NHTM đem cho vay hết ráo! (lãi suất cao hơn!) Kỳ vọng LSCK giảm? Nếu có thể chờ đợi vào một sự chuyển dịch CSTT sang hướng easing như tác giả (giả sử là có!), thì có nhiều thứ để chờ đợi hơn là chờ đợi cái LSCK nhằm tìm kiếm chênh lệch!
Bây giờ, những cái trên kia có thể không giải thích, tôi thử giải thích cái đơn giản nhưng quan trọng nhất là giá vốn, cái gọi là “lỗ” của tác giả: Cái gọi là lỗ của tác giả bài này dựa trên lý luận: huy động vốn kỳ hạn này rồi đầu tư vào bond tương tự, và giá vốn cao hơn TPCP. Nhưng, NHTM thì họ tính: giá vốn là bình quân, kỳ hạn cũng là bình quân (duration) và quan trọng là trong dòng luân chuyển vốn, các tài sản sẽ bù đắp cho nhau để thực hiện nghĩa vụ nợ (inflow vs ouflow), cơ sở nào nói họ lỗ, tôi ví dụ: huy động với LS bình quân rất thấp đối với các kỳ hạn là không kỳ hạn và kỳ hạn ngắn (đây là nợ cần phải chuẩn bị nguồn linh động nhất) thì TPCP cũng là nguồn linh động trong ý nghĩa thanh khoản của nó (TS thanh khoản), cho nên, có thể “ghép” bằng cách đầu tư vào một phần bond bằng cách sử dụng phần nợ ngắn hạn này, nhưng vẫn được chênh lệch lợi suất là khá cao! Phần còn lại của huy động nguồn dài hạn hơn, tôi cho vay. Được không? Do đó, khi tôi dự báo LS giảm (nếu bỏ qua yếu tố trading bond nhờ vào tăng giá bond khi lãi suất giảm) thì mua bond xem như là một sự cơ cấu lại danh mục: bình quân giá vốn ngắn hạn sẽ giảm xuống trong khi bình quân danh mục “bond” tương ứng vẫn đảm bảo.
Tổng thể, đầu tư/kinh doanh vào bond (TPCP) là một chiến lược rất phức tạp (Nhìn bề ngoài e là khó kết luận một điều gì!) bao gồm: Đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro, bảo hòa chất lượng tài sản, là kinh doanh chênh lệch giá nhờ vào biến động lãi suất (trading, giá ngược chiều lãi suất, cái này nhạy cảm nhất với biến lạm phát và lãi suất ngắn hạn – LS chính sách, dự đoán sự dịch chuyển của yield curve), phần còn lại, quan trọng nhất đối với một NHTM (nhà đầu tư TPCP lớn nhất hiện tại) mua TPCP sẽ hỗ trợ, điều hòa khả năng thanh khoản (mặc dù so với cho vay, lợi suất TPCP thấp hơn hẵn!) bao gồm cả việc phân bổ khoản nào vào trading, khoản nào là investing, cái nào là giữ đến ngày đáo hạn như là một tỷ trọng có thu nhập cố định (fixed income) đảm bảo giảm rủi ro cho một danh mục TS!…
dai said:
Bài này sáng em có được gửi link nhìn xem ai viết thấy ko “nổi tiếng” nên cũng không đọc vì nghe cái title lá cải quá.
Bỏqua các yếu tố khác, việc so sánh ls huy động kỳ hạn ngắn với TPCP kỳ hạn dài thì là ko có kiến thức cơ bản rồi
Nghiatq said:
🙂 Tôi thì post vì bức xúc cũng như ghi chú lại cái có thể có nhầm lẫn cho tôi cũng như cho những bạn đang tìm hiểu về bond.
trí said:
Chỉ xét việc đầu tư vào bond dựa trên điều tiết thanh khoản: Giải thích đơn giản thế này, NHTM huy động được một đống tiền với lãi suất 10%, thì để lợi nhuận đạt nhiều nhất, ngân hàng đó sẽ cho vay toàn bộ với lãi suất 12%. Tuy nhiên, nếu ngân hàng làm như vậy thì khi người ta đến rút tiền ngân hàng không thể nào đáp ứng được (do không thể bắt người vay trả tiền ngay) —> Ngân hàng chỉ còn 2 cách:
1) Giữ lại 1 ít tiền để phòng người ta đến rút –> Cái này hơi dỡ vì để tiền chết đống 1 chỗ, không sinh lợi
2) Đầu tư vào cái gì đó mà tính thanh khoản cực cao –> đầu tư GB phát sinh từ đây, dù lãi suất thấp hay cao thì vẫn hơn là giữ tiền mặt –> Đây là thực tế của lý thuyết chi phí cơ hội và sự đánh đổi giữa giữ tiền mặt và bond.
Ban đầu các NHTM đầu tư vào bond chủ yếu để thanh khoản (lãi suất cũng quan trọng nhưng đứng sau, miễn sau cao hơn nắm giữ tiền mặt là ok). Tuy nhiên, khi càng phát triển, các NHTM càng biết phân bổ danh mục đầu tư hiệu quả nhất, từ đó mới phát sinh thêm nghiệp vụ đầu tư GB dựa vào: giá vốn, thời điểm, thanh khoản, tiềm lực tài chính….
thienduongladay said:
Lắm lúc báo chí nhìn cái tiêu đề thì ác nhưng trong chả có gì. Có hai vấn đề ở đây: Một là những nhà biên tập báo có xu hướng xào xáo lại và đặt tiêu đề cho đỡ trùng lặp khiến nội dung thường bị hiểu sai bản chất. Hai là Việt Nam quá nhiều chuyên gia. Người biết họ không nói và ít lên báo. Người lên báo thì biết ít và nói nhiều.
thienduongladay said:
Mấy ngày gần đây thấy anh Nghĩa có vẻ bức xúc nhỉ. Bác Giàu em thấy khoái cách trả lời của ông ấy vì dân Nam Bộ thật thà. Nhưng bên Ủy Ban giám sát và NHNN thì cứ bật nhau chan chát. Mỗi ông lên phát biểu là một số liệu. Vãi cả chưởng với Việt Nam.
Nghiatq said:
@ thienduongladay: Đồng ý với bạn, mr.R rất trả lời rất gần gũi và chất phác, nhưng đôi lúc suy nghĩ nhanh hơn lời nói và tất cả mọi thứ không thể rõ ràng ra được, đó là những người làm lớn!
Về mấy vụ “bật nhau” thì tôi thấy dạo này ít hơn, chắc đã có họp hành gì rồi. Trước kia thì đương thời hay bị các “cựu, nguyên” tranh phát biểu hết rồi.
Nhìn sang western thì hơi giống, Governor thì khó phỏng vấn người ta lắm! Chỉ có lấy được của những người xung quanh hay gần đó thôi!
Nghiatq said:
@ Trí: Vote cho bạn 5 cái sao!
trí said:
http://cafef.vn/20110622013230705CA34/nhen-nhom-xu-huong-tien-gui-ket-hop-dau-tu.chn
Cái link trên, anh Nghĩa đọc câu của ông Phó Tổng ngân hàng thử, em không hiểu lắm nghiệp vụ và loại hình sản phẩm này, vì sao ngân hàng không rủi ro, nếu anh Nghĩa biết có thể ví dụ cho bọn em dễ hiểu
Nghiatq said:
Tức là NH sẽ hedging bằng một hợp đồng với nước ngoài nghịch với HĐ mà NH này ký với KH, cuối cùng là squred position, nhưng có sự chênh lệch phí thu được từ hai phía (bán HĐ – mua HĐ). Tóm lại, NH là người trung gian, họ sẽ không giám cover hết open position vì yếu tố rủi ro.
Ở trường hợp này, NH triển khai là một cách tăng các sản phẩm đầu tư cho KH, nhưng NH được lợi là: 1. Tăng được tiền gửi vào NH, 2. Thu được phí. 3. Đó là chưa kể, nếu xem xét có HĐ nào béo bở (tức KH hơi bị “lố” trong dự đoán biến động của xu hướng” thì NH có thể giữ lại cho mình kiếm lời, không cần phải squared!
ie. Tôi cung cấp cho bạn một sản phẩm Tiết kiệm với các điều kiện dựa vào chỉ só VNindex (tôi lấy VNIndex như tỷ giá trong bài để dễ hình dung). Giả sử kỳ hạn là 3 tháng từ ngày ký hợp đồng. Tại ngày đáo hạn, nếu VNidex nằm trong khoảng 450 – 500 điểm, bạn sẽ nhận được LS là 15% (thay cho 14% bình thường), nếu nằm trong 500 – 550 điểm, bạn được 16%. Nếu giảm xuống còn 400 – 450 điểm, bạn được 12%.
Bạn phải trả cho tôi phí là 0.3%. Khi đó, tôi sẽ đi mua lại một HĐ tiền gửi như bạn với một tổ chức khác, nhưng phí rẽ hơn, là 0.2%. Dù VNindex có “chạy” như thế nào thì tôi vẫn thu được phí là 0.1%.
Hiện tại một số NH nước ngoài còn cung cấp tỷ giá theo khung (như trên: từ mức này đến mức kia, cũng có floor/ceiling, tức là chỉ cần tỷ giá không vượt qua được một mức nào đó, hoặc tần xuất xuất hiện: ví dụ gửi USD với điều kiện, nếu tỷ giá EURUSD trong 1 tháng có từ 3 lần vượt qua mức 1.5 thì bạn đã được LS là 10%,..