Tags
Vậy là VN cũng đã có bộ chỉ số PMI. Tình hình PMI và sub-index (11 subcomponents) 4 tháng đầu năm:
Xem thêm về VN’s PMI và methodology của HSBC
09 Wednesday May 2012
Posted MACRO ECO
inTags
Vậy là VN cũng đã có bộ chỉ số PMI. Tình hình PMI và sub-index (11 subcomponents) 4 tháng đầu năm:
Xem thêm về VN’s PMI và methodology của HSBC
Output Gap theo ước lượng của ANZ, sử dung phương pháp Hodrick-Prescott Filter (HPF). Nhìn chart potential không cao, actual hiện tại là dưới tiềm năng (có thể recession? Khi output gap negative ngày càng lớn từ quý III 2011 đến nay), nhưng lấy gì để đạt kế hoạch tăng GDP cao vút giai đoạn 2011 – 2015 (7 – 8%)?
Tóm lại, đối với các khoản cho vay BĐS, rủi ro mất vốn là rất thấp (do backed bằng TS đảm bảo khá lớn và luôn có mọi lý do để hỗ trợ tăng giá trị), nợ xấu không phản ánh đầy đủ vào lợi nhuận, mà rủi ro lớn nhất là rủi ro thanh khoản, nợ xấu cũng phản ảnh vào thanh khoản, và có thể nó đã khiến cho rất nhiều NH lợi nhuận khả quan nhưng đã mất thanh khoản trong thời gian vừa rồi (ví dụ là trường hợp M&A đầu tiên), cũng vì lý do tương tự mà đã ra đời tỷ lệ khống chế cho vay phi SX từ 22%, rồi xuống 16%. Tiếc là…
Điều ngạc nhiên hơn là lãi suất liên ngân hàng (các NH vay mượn lẫn nhau) thấp hơn rất nhiều so với lãi suất OMO, lãi suất tín phiếu, đã thấp hơn rất nhiều so với lãi suất huy động (bởi thế cũng đã có thông tin một số NH thông qua công ty sân sau gửi vốn thỏa thuận với NH khác!)! Vốn khả dụng dư thừa, cao hơn rất nhiều so với dự trữ, lãi suất liên ngân hàng (nơi cung cấp thanh khoản giữa các NH) thì thấp hơn rất nhiều so với lãi suất OMO, lãi suất tín phiếu, nhưng lãi suất cho vay
Tỷ giá hiện tại được hỗ trợ khá lớn từ các yếu tố lãi suất, chính sách hạn chế đô la hóa, cán cân BoP và cả niềm tin vào những công bố của Thống đốc.
Tuy nhiên, REER đang ở vị thế khá áp lực! Sẽ cản trở lớn cho việc hạ lãi suất đồng nội tệ! Như thế, nếu xảy ra một vài cú shock hay đầu cơ, có thể sẽ tiếp tục phá giá để thực hiện mục tiêu giảm lãi suất? (và hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của các DN trong nước, cũng như hỗ trợ doanh xuất khẩu, vốn đã kiệt quệ do lãi suât VND quá cao)
– Việc sửa đổi thì chắc chắn phải có, thế nhưng, theo tôi là quá nóng vội, tôi không nghĩ sớm và nhanh như vậy. Cần phải có nghiên cứu sâu xát để áp dụng. Quả là thất vọng với những nội dung được đưa ra, nó quá hạn hẹp và bó buộc bởi TT13 cũ mà không có định hướng cho tương lai bằng lộ trình cụ thể, hướng dần đến các chuẩn mực Basel 2 và Basel 3. Việc sửa đổi tới 3 lần trong thời gian sớm như vậy chứng tỏ sự bối rối và chưa có giải pháp nhất quán về việc thực hiện khung quản lý đối với hệ thống TCTD
Trong tình hình tiến triển “thuận lợi” như hiện tại (sau khi thực hiện hàng loạt chính sách tiền tệ và chính sách quản lý NH nói chung và đối với các đối tượng NH khác nhau), cùng với áp lực của việc giảm mặt bằng lãi suất. NHNN sớm hạ tiếp trần lãi suất huy động xuống 12% sau đợt cắt giảm 1 điểm % tháng trước để tạo đà cho việc thực hiện các gói cho vay lãi suất thấp hơn
Việc giảm lợi suất đến từ nỗ lực kiềm chế lạm phát của VN, dự trữ ngoại tệ đang tăng rất mạnh cùng với cán cân thương mại cải thiện đáng kể. Việc sụt giảm lợi suất còn đến do yếu tố toàn cầu: Việc phân bổ lại/tái cơ cấu danh mục đầu tư đã hướng đến khu vực thị trường mới nỗi do trái phiếu của khối Eurozone không còn là riskfree với lợi tức hấp dẫn. Các nhà đầu tư bond của VN chủ yếu là các Quỹ, một số bank, bảo hiểm và quỹ hưu trí
Với những gì xảy ra, đặc biệt GDP quý I giảm mạnh, DN phá sản lớn, thất nghiệp,…trong môi trường lãi suất quá cao – cùng với lượng TPCP cứ tăng quá mạnh (và tất yếu là lực giữ/đẩy Ls cao duy trì trong một thời gian dài), tôi nghi ngờ rằng, các chi tiêu công (G) không đủ hiệu quả ngắn hạn để có duy trì phát triển trong ngắn hạn và gây áp lực lạm phát trong trung dài hạn do hiệu quả kém.