Trong phát biểu của vị tân thống đốc, có nói về giải pháp để giảm mặt bằng lãi suất bằng cách phân bổ lại dòng thanh khoản không đồng đều và bị tắc bởi nhiều lý do (tôi có nêu trong các entries về lãi suất và “dilemma”). Một trong những biện pháp là bơm mạnh thanh khoản (không hạn chế) cho các NH thiếu mà không…phát hành tiền, thay bằng cách tăng dự trữ bắt buộc để finance cho việc bơm tiền này. Đây là điều độc đáo, có thể nói là hiếm, cũng như là một sáng kiến mới của NHNN (nếu xảy ra). Entry này tôi trình bày đơn thuần lý thuyết về chức năng cấp tín dụng (lending) của NHTW và chức năng của dự trữ bắt buộc (required reserve).
Chức năng cung cấp tín dụng cho hệ thống NHTM là một trong những chức năng quan trọng nhất của một NHTW. Khi thực hiện chức năng này, mục đích là phát hành thêm tiền theo kế hoạch, hoặc bổ sung thanh khoản (vốn khả dụng) cho hệ thống ngân hàng, hoặc vai trò người cho vay cuối cùng (LOLR). Thực hiện nghiệp vụ nào đi nữa, thì việc cấp tín dụng này là tương đương với việc phát hành tiền (in tiền).
Thứ nhất, nói rằng, tăng DTBB để tăng lượng vốn cho NHTW để bơm trở lại cho hệ thống những NHTM thiếu thanh khoản là không đúng chức năng cơ bản của DTBB và của NHTW. Chức năng đầu tiên và cơ bản nhất của DTBB là đảm bảo khả năng thanh toán các nhu cầu vượt trội của ngân hàng (như khách hàng rút tiền mặt nhiều chẳng hạn). DTBB là khoản dự trữ để dành cho mỗi một NHTM (nhiều NHTM tạo thành tổng dự trữ), nó là một quỹ thanh khoản để NHTM đó, khi cần thiết có thể sử dụng (âm DTBB, thanh toán, không cần phải căng thẳng thanh khoản, mà là thanh toán vượt mức bình thường đang có tại quỹ dự trữ của mình tại một thời điểm nào đó) sau đó sẽ tìm mọi cách vay tiền và bỏ vào quỹ dự trữ theo quy định, việc vay mượn này theo nghĩa thông thường của nó là vay từ NHTW và vay trên thị trường liên ngân hàng. Không quỹ dự trữ nào “thanh khoản” bằng DTBB. Đây là một quỹ bất khả xâm phạm, NHTW không thể sử dụng nó để cho NHTM khác vay! (khi dùng tổng quỹ DTBB để cho NHTM khác vay, có nghĩa là đã sử dụng vốn DTBB của NHTM khác, rất nguy hiểm, bởi trong một thời điểm nào đó NHTM đang bị chiếm dụng vốn vẫn cần sử dụng đến DTBB của mình!).
Từ đó, chức năng thứ hai của DTBB là đảm bảo sự ổn định của lãi suất thị trường liên ngân hàng, cụ thể là lãi suất ngắn hạn như qua đêm (O/N) dài hơn nữa là 1 tuần, 2 tuần tùy vào cơ cấu kỳ tính DBTT của NHTW. Bởi NHTW thường sử dụng phương pháp tính DTBB theo bình quân, kỳ hạn tính dự trữ là 1 tháng (tức là bình quân trong tháng đó, tổng tiền DTBB cần phải duy trì phải lớn hơn hoặc bằng số DTBB bắt buộc phải duy trì, cho nên, trong ngắn hạn, 1 đêm, 1 tuần, NHTM có thể sử dụng thâm nguồn DTBB tạm, sau đó “bù lại” mà chưa cần phải vay trên liên NH với lãi suất nào đó nếu thấy không có lợi.) Do đó, nếu sử dụng quỹ dự trữ để cho vay tái cấp vốn, có thể làm cho lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên NH biến động mạnh hơn, do tính linh hoạt (in tiền) của NHTW sẽ hạn chế hơn, bởi tái cấp vốn, chiết khấu luôn có kỳ hạn rất dài hơn so với lãi suất ngắn hạn O/N, 1 tuần.
Mỗi NHTM đều đã có phần của mình trong quỹ, có phần dự trữ của chính mình, khi thanh khoản căng thẳng, sẽ sử dụng thâm vào quỹ này, sau đó, sẽ vay lại từ NHTM khác hoặc NHTW (OMO, refinancing, rediscount, vay qua đêm để bù đắp thanh khoản,…) Tiền NHTW sử dụng để cho vay hoặc bơm qua các kênh của mình như OMO chẳng hạn, là được “in” ra. Việc in như thế nào, có thể xem ở entry này. Nói chung, in trong trường hợp này không phải là in tiền giấy, mà là tiền điện tử (ghi có vào TK của NHTM mở tại Sở giao dịch NHNN)
Thứ ba, khi tăng DTBB, đồng nghĩa với việc muốn thu hẹp cung tiền, tức là mâu thuẩn với việc bơm tiền ra! Cho nên, phải phân biệt rằng, hỗ trợ thanh khoản không đồng nghĩa với mở rộng CSTT và nó vẫn được thực hiện bình thường trong môi trường CSTT thắt chặt. Có nghĩa là, tăng DTBB là thực hiện định hướng thắt chặt tiền tệ, chứ không phải tăng dự trữ để có tiền thực hiện chức năng hỗ trợ thanh khoản. Thị trường sẽ tự điều tiết, khi một NHTM thiếu thanh khoản, sẽ vay trên liên NH, vay NHNN. Trường hợp của VN, là do NHNN không thực hiện triệt để chức năng hỗ trợ này, tức là phải bơm tiền không giới hạn khi cần thiết, điều tiết linh hoạt và các NHTM khác nhau đều có thể tiếp cận thanh khoản một cách tốt nhất. Khi một vài NH thiếu thanh khoản, sẽ vay từ liên NH/OMO, nếu vay NH khác khó khăn, sẽ vay NHNN với lãi suất thấp, việc vay được này buộc các NH thừa vốn phải giải lãi suất và phải cho vay lại, chứ không thể “làm giá” để đẩy NH cần vốn vào thế phải vay với lãi suất cao – tức là bị “tắc” do NHTM không thực hiện triệt để chức năng của mình.
Dự trữ bắt buộc có thể thực hiện nhất quán một tỷ lệ đối với cả hệ thống, hoặc sử dụng nhiều tỷ lệ khác nhau đối với mỗi loại NHTM khác nhau tùy vào tính chất hoạt động, tùy vào quy mô và mục đích của NHTW (multi – reserve ratios, viết về DTBB, nên đọc lại entry này (viết từ 10/2010), vẫn còn thấy “sợ” về lạm phát). Tuy nhiên, điều này là rất khó thực thi vì lý do cũng như những điều kiện đặt ra phải minh bạch và hợp lý và công bằng (như NHNN đã thực hiện với NH Nông nghiệp, và một số NHTM có dư nợ cho vay nông nghiệp cao hiện tại). Trong bài phát biểu, thống đốc có nói rằng, sử dụng những DTBB khác nhau, cho nên, có thể là nhiều, nhưng nhiều theo kiểu NHTM nào thanh khoản tốt thì cao, NHTM nào kém thanh khoản thì thấp chắc chắn là không hợp lý! Cũng như việc “lấy tiền” của NH này cho NH khác vay.
Thực tế, để thực hiện ý như vị thống đốc nói, cách hợp lý là phát hành tín phiếu bắt buộc/tự nguyện (đi vay) và có thể cho vay lại bằng những chính sách khác nhau mà không làm mở rộng cung tiền, đồng thời, “bơm” dòng vốn đúng chỗ cần hơn. Việc xác định mức độ mua tín phiếu của từng NHTM cũng dễ phân bổ hơn.
Tất nhiên, việc tăng DTBB hay phát hành tín phiếu thì đều thuộc định hướng thắt chặt, tức là thấy rằng, với lượng cung tiền hiện tại là còn thừa và chưa phù hợp với mục tiêu giảm lạm phát! Và thị trường hiện tại không mong đợi điều đó. Hoặc là để điều hòa (cho chính sách tăng FX reserves). Đó là chức năng thứ 3 của DTBB, kiểm soát, điều tiết cung tiền để đạt được mục tiêu trung gian của CSTT và từ đó là đạt được mục tiêu cuối cùng (như ổn định giá cả, tăng trưởng).
Tuy nhiên, việc cho vay lại vẫn được sử dụng, khi mà chức năng đầu tiên của DTBB ngày càng giảm vai trò quan trọng (và cơ bản) của nó, bởi sự phát triển của các công cụ tiền tệ giúp cho NHTM đảm bảo được thanh khoản tốt nhất rồi. Đó cũng là lý do mà tỷ lệ DTBB ngày càng thấp theo sự phát triển của ngành ngân hàng (mặt bằng chung), càng lúc DTBB càng giống như/trở thành một thứ thuế đánh vào hệ thống NHTM hơn mà không có người thu, do đó nên giảm xuống. (Thậm chí, DTBB là cố định một tỷ lệ rất nhỏ và rất hiếm/không điều chỉnh (như Fed) kể cả muốn thay đổi cung tiền (Fed sử dụng lãi suất và cửa sổ chiết khấu – discount window) bởi tác động của DTBB quá lớn). Do đó, khi tỷ lệ DTBB tương đối, thì nó có thể trở thành một quỹ gọi là “Quỹ nghiệp vụ phát hành” trong nghiệp vụ phát hành tiền (mặt) của một NHTW (bao gồm nhập – xuất). Khi đem quỹ DTBB cho vay lại, giúp tiết kiệm hoặc bù đắp chi phí in tiền, và có thể tạo thu nhập bằng việc cho vay lại với lãi suất cao hơn lãi suất trả (IORR).
Từ ý nghĩa thu nhập, việc cho vay lại lại có khả năng tạo thu nhập cao (lợi ích) thì rõ ràng không nên. Có lẽ để xóa bỏ sự xung đột lợi ích với NHTM này mà thống đốc lại đưa ra việc tăng lãi suất trả cho DTBB?! Dù gì đi nữa, nếu muốn theo định hướng chính sách này, thì phát hành tín phiếu vẫn hay hơn.
Tăng Lãi suất trên DTBB (IORR) là một giải pháp nhằm giảm chi phí cho NHTM, từ đó, giảm lãi suất thị trường. Chú ý, trường hợp trả lãi suất cho tiền gửi vượt DTBB (IOER) đồng nghĩa với việc thắt chặt CSTT, và có thể đẩy Ls cho vay trên thị trường lên cao.
dai said:
Có thể thấy trước rất nhiều những tiêu cực và bất ổn nếu NHNN thực hiện tăng dự trữ bắt buộc và dùng cái quỹ này để cho vay.
Nếu cũng từng ấy tiền được rút về và từng ấy tiền được đưa ra thì cung tín dụng vẫn vậy, chỉ có thay đổi là NHNN sẽ thay thị trường quyết định cho vay vào đâu. Và cái này thì tiềm ẩn nhiêu tiêu cực.
Bò con said:
Bác TĐ muốn và muốn rằng “vốn huy động không nằm chết một chỗ”. Sẽ có ngân hàng thừa và ngân hàng thiếu. Muốn tái cấp vốn phải dùng cách nào? In tiền để TCV? Lạm phát –> Tiền đâu? Dự trữ bắt buộc bỏ đó làm gì, lấy TCV. Tuy nhiên, giả sử không đề cập đến những tiêu cực của biện pháp này, thì mặt lợi của TCV từ dự trữ bắt buộc này là gì? Luân chuyển vốn, điều hòa thanh khoản. Giả sử một cái nữa là thành công trong ngắn hạn đi —> Cuối cùng, thấy được làm tới. Chức năng của NHNN bây giờ chỉ đơn giả là “Tăng dự trữ bắt buộc – Tái cấp vốn”. Xem chừng đơn giản quá, vậy anh em mình cũng có thể làm ^ ^ (nói vui thôi).
Mọi biện pháp đều khó hoàn hảo, đem lại hiệu quả tích cực mà không xen lẫn những tiêu cực. Nhưng lẽ ra, trước khi biện pháp được ban hành, cơ quan ban ngành nên: Tính kinh tế thị trường và nền tảng lý luận của biện pháp đó. Đành rằng không phủ nhận mặt lợi của biện pháp hành chính trong ngắn hạn, nhưng hành chính quá mức sẽ làm cho cả hệ thống và nền kinh tế bị lũng đoạn/hoạt động máy móc, thiếu sức sống. Mặt khác, mọi biện pháp kinh tế nhưng không dựa trên nền tảng lý luận vững chắc và áp dụng linh hoạt dựa vào tình hình từng địa phương thì cũng gây hậu quả nghiêm trọng không kém.
thienduongladay said:
Nhìn cách phát biểu trước đây thì mình nghĩ Thống Đốc dùng tín phiếu bắt buộc chứ ko phải dự trữ bắt buộc. Nói chung như đã chia sẻ, chúng ta may mắn giảm lạm phát nhờ các cú sốc như giá cả hàn hóa thế giới giảm nên thời bây giờ chúng ta dễ thở hơn nhiều. Nhưng ko làm nhanh tới lúc thế giới quay trở lại chu kỳ tăng giá ta lại vào vòng luẩn quẩn cũ. Hy vọng chúng ta biết chớp thời cơ.. Nói chung may vẫn hơn khôn.
Hà văn Tín said:
Làm thế nào để các vị có trách nhiệm ( hay trợ lý các vị cũng được ) đọc được nội dung này ? Thưa anh.
Đ. Hải said:
Anh Nghĩa nghĩ sao về giải pháp tạm thời bỏ giới hạn 80% trong TT13-19 hay thậm chí tăng giới hạn lên 90%, em thấy thiên hạ bàn tán xôi nổi giải pháp này và thấy nó đi ngược lại quá trình lành mạnh hóa hệ thống, nhất là bối cảnh hiện nay nợ xấu đang tăng mạnh nên càng cần vùng vốn đệm an toàn, nhưng thiên hạ có vẻ ủng hộ ghê quá
dai said:
ăn với chạy theo mấy thông tư mỗi lúc 1 khác của NHNN cũng đủ mệt,hix
cái tỷ lệ 80% thì bỏ đi cũng đc vì đã có hệ số k và các chỉ tiêu thanh khoản.
Bò con said:
@ Dép Đốc Tờ: Em thì em nghĩ không nên bỏ cái giới hạn đó đi làm gì, vì dù thế nào đó cũng là tấm đệm hỗ trợ thanh khoản. Điểm qua một số bank như: Nam A, Bac A, Viet Bank, Viet A, Gia Dinh, có tỷ lệ cho vay/huy động rất cao, xấp xỉ và > 100%, những bank này cũng thường xuyên thiếu thanh khoản, và cầu cứu ở 2 nơi: 1) Dân cư bằng cách phá rào huy động/ 2) Liên ngân hàng đẩy lãi suất interbank tăng đột biến.
Mọi người bàn tán, các chuyên gia cho rằng nên bỏ tỷ lệ này đi, nhưng thật sự trong mỗi ngân hàng, quá trình quản lý rủi ro đều quy định chặt chẻ sử dụng bao nhiêu vốn huy động để cho vay (trừ một số ngân hàng nhỏ thì làm tẹt ga, do huy động gặp khó khăn hơn), và khi vượt tỷ lệ này sẽ tìm cách bù đắp, đó là những ngân hàng quản lý thanh khoản rất tốt. Ví dụ: Quy định nội bộ ngân hàng là tỷ lệ cho vay/huy động 70%, thì một khi có xu hướng vượt tỷ lệ này, ngân hàng sẽ tìm cách khắc phục ngay, vì nếu không dễ ảnh hưởng tới thanh khoản.
Nghiatq said:
@Đại: Chưa bình luận gì về việc bỏ, tăng, giảm gì đó, chỉ tính riêng việc “chạy” theo Thông tư quá mệt mỏi (tôi nghe một số bạn bè phản ánh thế!). Bạn tôi cũng “khuyến mãi” thêm một câu: “chạy” (theo nghĩa lách) cũng rất dễ, chắc cái mới cũng thế thôi, quan trọng là quản lý. 🙂
dai said:
Chắc sắp tới sẽ lại “chạy” để xin tái câp vốn từ vụ tăng DTBB, ko biết NHTM có phần ko hay chỉ 4 bác Qd.
Nếu tăng dự trữ bắt buộc thêm 5% thì cũng chỉ dùng lượng cho vay bằng TCV của NHNN cũng chỉ hơn 5% tổng dư tín dụng một chút. Sao mà gọi là kéo mặt bằng ls xuống đc chứ.
không biết các bác tính toán kế hoạch thế nào mà tuyên bố rùm beng quá.
Nghiatq said:
@Đại: có thể ý là bóc chỗ này bỏ chỗ kia, phân bổ lại dòng tiền bị tắc.
Lê Đôn said:
Thật không nên ; Vài Ngân hàng lớn muốn có sân chơi ( sàn vàng ); Ngân hàng nhỏ muốn có kênh huy động vì thiếu hoặc cần thêm thanh khoản không ngại rủi ro. Hoạt động Ngân hàng vào lại chu kỳ như trước, không cắt cơn được…
Minh said:
1) anh Nghĩa cho em hỏi, trong báo cáo tài chính của ngân hàng. Bên phần tài sản, nếu khoản mục “Tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước” tăng đột biến ví dụ gấp 2,3,4,5 lần so với cùng kỳ năm trước thì cho mình biết được thông tin gì không anh?
2) Em muốn hỏi anh, khoản mục “Tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước” bao gồm những cấu phần nào
Em cám ơn anh!
Nghiatq said:
Dear Minh:
2. “Tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước” chỉ bao gồm…“Tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước” :), đơn giản là thế, NHTM có tiền thì gửi tại NHNN (SGD và NHNN). Tiền gửi này xét theo nguyên tệ thì (ở VN) bao gồm VND và USD. Xét về mục đích thì có: Tiền gửi để đảm bảo dự trữ bắt buộc (RR) theo quy định, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc (ER) có mục đích chuẩn bị cho việc thanh toán và vốn nhàn rỗi. Nếu NHNN có trả lãi cho khoản tiền gửi ER thì còn thêm mục đích…sinh lợi (tùy tình hình)
1. Khi RR + ER gọi chung là Reserves tăng thì do nhiều nguyên nhân.
* Một số nguyên nhân mang tính kỹ thuật bao gồm: huy động tiền của NHTM tăng lên dẫn đến dự trữ duy trì cao hơn, tỷ lệ dự trữ tăng cao (do NHNN tăng RR ratio lên), trong thời kỳ đó có nhiều khoản (chuẩn bị) thanh toán buộc NHTM phải duy trì đủ lớn để đảm bảo khả năng này.
* Nguyên nhân không mang tính kỹ thuật như trên thì có: hoặc NHNN trả lãi suất trên ER đủ cao thì NHTM cũng tăng gửi tại NHNN lên. Hoặc thạnh khoản của NHTM quá dồi dào trong khi không thể/không muốn cho vay ra (hoặc chỉ phân bổ một ít vào bond). Việc không cho vay/cho vay ít hoặc phân bổ vào tài sản khác ít do rủi ro tăng lên quá cao vượt ngoài giới hạn cho phép về rủi ro của khoản phân bổ này (mặc dù lãi suất NHTM yêu cầu vẫn rất lớn).
Khi tiền gửi tại NHNN tăng lên đột biến + ý định tăng thanh khoản của NHTW ra nhằm kích thích tổng cầu (nhưng tín dụng/cung tiền không tăng hoặc tăng chậm) thì có thể đã rơi vào tình trạng liquidity trap.
* Và nhiều vấn đề rất hay khác nữa, bạn xem thêm ở đây:
Minh said:
anh Nghĩa,
em đọc báo cáo tài chính của ngân hàng XYZ, khi xem đến bảng rủi ro thanh khoản. Em thấy tại thời điểm 31/12/2011, mức chênh lệch thanh khoản ròng trong vòng 1 tháng tới là âm (53.807) tỷ đồng. Nếu vậy thì chẳng lẽ trong 1 tháng tới ngân hàng mất thanh khoản? và với con số âm lớn như vậy, ngân hàng phải làm gì để đảm bảo thanh khoản?